TÌNH HUỐNG LUẬT ĐẤT ĐAI
Hộ gia đình ông A năm 1989 được UBND huyện cấp đất ở, diện tích là 200m2 sát đường quốc lộ. Việc giao đất tại thực địa do UBND xã thực hiện nhưng không có giấy tờ thể hiện mốc giới cách mép đường là bao nhiêu. Hiện nay đo tới sát mép đường vẫn là 200m2. Năm 2008 UBND huyện thu hồi 30m2 để mở rộng đường nhưng không bồi thường, không có quyết định thu hồi đất vì cho rằng phần đất bị thu hồi nằm trong hành lang an toàn giao thông.
Hộ ông A không đồng ý và không thực hiện yêu cầu trả đất cho hội đồng GPMB. UBND huyện đã tổ chức cưỡng chế (không có quyết định cưỡng chế).
Hỏi:
1. UBND huyện có các hành vi hành chính nào khi thực thi nhiệm vụ thu hồi đất trái pháp luật?.
2. Hộ ông A không được bồi thường đúng hay sai? Vì sao?.
3. Việc cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện đúng hay sai? Vì sao? Quy định tại văn bản nào?
4. Ông A có quyền khiếu nại, khởi kiện theo quy định tại các văn bản pháp luật nào?.
TRẢ LỜI
Câu 1: UBND huyện có các hành vi hành chính nào khi thực thi nhiệm vụ thu hồi đất trái pháp luật?
UBND huyện đã có các hành vi hành chính để thực thi nhiệm vụ thu hồi đất trái pháp luật là:
Thứ nhất, căn cứ vào Luật đất đai 2003, tại điều 39:
Khoản 2: “Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và một trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thầm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư”.
Như vậy, năm 2008 UBND huyện thu hồi 30m2 để mở rộng đường mà không thông báo trước với hộ gia đình ông A là trái pháp luật, trái với khoản 2 điều 39 của luật đất đai năm 2003.
Thứ hai, khi tiến hành cưỡng chế, UBND huyện đã không có quyết định cưỡng chế mà lại tổ chức cưỡng chế, điều đó có nghĩa là UBND huyện đã làm sai.
Thứ ba, việc không bồi thường cho ông A cũng là không đúng. Căn cứ vào điều 42, điều 43 của Luật đất đai 2003, căn cứ vào nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 ông A có điều kiện để được bồi thường.
Câu 2: Hộ ông A không được bồi thường đúng hay sai? Vì sao?
Hộ ông A không được bồi thường là sai. Vì những lí do sau đây:
Thứ nhất, căn cứ vào điều 8 nghị định của Chính phủ số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất:
Người bị Nhà nước thu hồi đất, có một trong các điều kiện sau đây thì được bồi thường:
1. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã, phường thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có trong các loại giấy tờ sau đây:
a. Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà.
…
Như vậy, ông A có đủ điều kiện để được bồi thường. Đất của ông A được UBND huyện cấp cho từ năm 1989 và khi đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên việc đến năm 2008 UBND huyện thu hồi đất của ông A như thế là không đúng.
Thứ hai, căn cứ vào Luật đất đai năm 2003:
Điều 42: Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi
Khoản 1: “Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của điều 50 của luật này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7,8 ,9, 10, 11, và 12 điều 38 và các điểm b, c, d,đ, g khoản 1 điều 43 của luật này”.
Điều 43: Những trường hợp mà thu hồi đất không bồi thường:
1. Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất trong các trường hợp sau đây:
a. Thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 điều 38 của luật này.
b. Đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh; đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao và các công trình công cộng khác không nhằm mục đích kinh doanh; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa.
c. Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng.
…
g. Đất nông nghiệp sử dụng vào các mục đích công ích của xã, thị trấn.
Như vậy, trường hợp của ông A không thuộc đối tượng điều 42 và điều 43 của luật này nên việc bồi thường cho ông A là đúng.
Câu 3: Việc cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện đúng hay sai? Vì sao? Quy định tại văn bản nào?.
Việc cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện trong trường hợp trên là sai. Vì những lí do sau:
Thứ nhất, vào năm 1989 khi hộ gia đình ông A được UBND huyện cấp đất ở, diện tích 200m2, có nghĩa là hộ gia đình ông A đã có quyết định giao đất của UBND huyện, theo điều 50 của luật đất đai 2003 thì hộ gia đình ông A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, điều đó chứng tỏ rằng UBND huyện công nhận quyền sử dụng hợp pháp diện tích là 200m2 đó.
Thứ hai, vào năm 2008 khi UBND huyện thu hồi 30m2 để mở rộng đường nhưng không bồi thường, không có quyết định thu hồi đất là sai. Căn cứ vào khoản 2 điều 39 luật đất đai năm 2003: “Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và một trăm tam mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thầm quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể và bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư”. Như vậy, khi tiến hành thu hồi đất, UBND huyện đã không thông báo trước cho ông A về việc thu hồi đất, nên UBND huyện làm như vậy là không đúng.
Thứ ba, khi tiến hành cưỡng chế thu hồi đất, UBND huyện đã không làm theo đúng thủ tục, khi chưa có quyết định thu hồi đất mà UBND huyện đã cưỡng chế thu hồi đất là sai, vi phạm.
Câu 4: Ông A có quyền khiếu nại, khởi kiện theo quy định tại các văn bản pháp luật nào?
Ông A có quyền khiếu nại, tố cáo khởi kiện theo quy định tại các văn bản pháp luật sau:
Thủ tục khiếu nại về đất đai. Theo đó, ông A làm thủ tục, hồ sơ khiến nại lên UBND huyện để giải quyết, trường hợp ông A không đống ý với quyết định giải quyết của chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc hết thời hạn giải quyết mà vẫn không nhận được quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện ra toà án nhân dân hoặc khiếu nại đến uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.